Mục tiêu 1,5oC từ đâu ra?
Mục tiêu nhiệt độ 1,5oC của Thỏa thuận Paris phản ánh nhiều thập kỷ tương tác giữa khoa học khí hậu và chính trị khí hậu.
Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 1992 (UNFCCC), hiệp ước quốc tế đầu tiên trên thế giới đối phó với khủng hoảng khí hậu, không nêu ra giới hạn nhiệt độ. Một mục tiêu về nhiệt độ xuất hiện sau đó, khi Hội đồng châu Âu và nhóm G8 ban đầu thống nhất về mức 2oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Các Thỏa thuận Cancun năm 2010 đã trở thành các thỏa thuận toàn cầu đầu tiên tham chiếu đến 2oC, đồng thời cũng thừa nhận tiềm năng cho một giới hạn mạnh hơn, 1,5oC.
Trong quá trình chuẩn bị cho Thỏa thuận Paris năm 2015, các chuyên gia đã kết luận rằng ngay cả mức nóng lên 2oC cũng đem lại những rủi ro nghiêm trọng. Liên minh các quốc đảo nhỏ (AOSIS) và các quốc gia kém phát triển nhất (LDC) đã thúc đẩy mạnh mẽ trong các cuộc đàm phán thỏa thuận để đưa ra một giới hạn nghiêm ngặt hơn, dẫn đến một sự thỏa hiệp: các quốc gia đã cùng nhất trí hạn chế mức nóng lên “dưới 2oC” và “tiếp tục nỗ lực” để hạn chế ở mức 1,5oC.
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) sau đó đã chuẩn bị một báo cáo về mục tiêu 1,5oC. Họ đã tìm thấy sự tương phản rõ rệt trong tác động của biến đổi khí hậu khi nhiệt độ tăng 1,5oC so với 2oC. Họ cũng đã phác họa những gì cần làm để duy trì trong giới hạn 1,5oC.
Mục tiêu 1,5oC được sử dụng như thế nào?
Kể từ khi được thông qua trong Thỏa thuận Paris năm 2015, mục tiêu 1,5oC vừa là biểu tượng hùng biện mạnh mẽ vừa là cơ sở cho các chuẩn mực kỹ thuật cụ thể.
Các quốc gia dễ bị tổn thương, các tổ chức phi chính phủ và các nhà ngoại giao đều viện dẫn mục tiêu 1,5oC để làm nổi bật những gì đang bị đe dọa trong các cuộc đàm phán về khí hậu của Liên hợp quốc và các quyết định chính sách khác. Các quốc gia dễ bị tổn thương do khí hậu như các quốc đảo nhỏ từ lâu đã coi 1,5oC là vấn đề sống còn, được phổ biến trong cụm từ “1,5 để tồn tại”. Các phong trào thanh niên và các nhà lãnh đạo Liên hợp quốc, bao gồm cả Tổng thư ký António Guterres, đã nhiều lần kêu gọi hành động khẩn cấp để giữ giới hạn 1,5oC.
Về mặt kỹ thuật, mục tiêu 1,5oC hỗ trợ một loạt các chuẩn mực và đánh giá khoa học về hành động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nó được sử dụng để đánh giá tham vọng của các cam kết khí hậu quốc gia (“đóng góp do quốc gia tự quyết định”, NDC) và các mục tiêu giảm phát thải của doanh nghiệp. Nó giúp các nhà khoa học ước tính ngân sách carbon còn lại – lượng CO2 mà thế giới vẫn có thể thải ra trong khi giới hạn sự nóng lên ở mức 1,5oC. Các lộ trình phù hợp với mục tiêu 1,5oC do IPCC đánh giá tạo thành cơ sở cho các mốc thời gian giảm phát thải (chẳng hạn như chuẩn mực toàn cầu được trích dẫn rộng rãi là giảm phát thải 43% so với mức năm 2019 vào năm 2030), thời hạn đạt được mức phát thải ròng bằng 0 và các mục tiêu cụ thể theo từng lĩnh vực như loại bỏ dần than hoặc thay thế xe chạy nhiên liệu hóa thạch bằng xe điện.
Các mốc thời gian và chuẩn mực này lần lượt hỗ trợ các công cụ giải trình như Báo cáo khoảng cách phát thải , Sáng kiến mục tiêu dựa trên khoa học và báo cáo Tình hình hành động vì khí hậu.
Làm sao biết khi nào chúng ta đã vượt quá mục tiêu 1,5oC?
Thỏa thuận Paris kêu gọi “giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở mức dưới 2oC so với thời kỳ tiền công nghiệp và nỗ lực hạn chế mức tăng nhiệt độ ở 1,5oC so với thời kỳ tiền công nghiệp”. Để biết khi nào chúng ta đã vượt ngưỡng, điều quan trọng là phải định nghĩa một số thuật ngữ:
- – Nhiệt độ trung bình toàn cầu đề cập đến “nhiệt độ không khí gần bề mặt trung bình toàn cầu ước tính trên đất liền và băng biển, và nhiệt độ bề mặt biển trên các vùng đại dương không có băng”. Ước tính này đến từ các số đo nhiệt độ từ các trạm thời tiết, tàu thuyền và phao trên khắp thế giới, sau đó được tính trung bình để tạo ra một con số toàn cầu.
- – Mặc dù Thỏa thuận Paris không định nghĩa “mức tiền công nghiệp”, các nhà khoa học, như những người ở IPCC, thường sử dụng giai đoạn 1850-1900. Giai đoạn này đánh dấu sự bắt đầu của các dữ liệu nhiệt độ toàn cầu đáng tin cậy.
- – Nhiệt độ trung bình toàn cầu ngày nay được so sánh với các điều kiện trong quá khứ. Sự khác biệt giữa hai điều kiện này được gọi là dị thường nhiệt độ.
Theo thông lệ khoa học, mục tiêu Paris liên quan đến sự dị thường nhiệt độ trong vòng ít nhất 20 năm. Cách tiếp cận này loại trừ các tác động của biến động nhiệt độ theo năm do các yếu tố như El Niño/La Niña, hoạt động núi lửa và những thay đổi dòng hải lưu để đưa ra ước tính tốt hơn về sự nóng lên do con người gây ra. Các nhà khoa học thường đánh giá xem mức trung bình dài hạn có vượt quá 1,5oC tại bất kỳ thời điểm nào trong thế kỷ 21 hay không, đặc biệt vào năm 2100. Nếu sự nóng lên tạm thời vượt quá ngưỡng trước khi giảm xuống dưới ngưỡng đó vào cuối thế kỷ, thì điều này được gọi là “vượt ngưỡng”.
Theo cách tiếp cận này, năm mà ngưỡng nhiệt độ nhất định bị phá vỡ là năm giữa của khoảng thời gian 20 năm. Theo WMO , “nóng lên 1,5oC chỉ được xác nhận khi nhiệt độ quan sát đạt đến mức đó trong khoảng thời gian 20 năm, 10 năm sau năm vượt quá. Do đó, sẽ có sự chậm trễ 10 năm trong việc nhận ra và phản ứng với việc vượt quá mục tiêu nhiệt độ dài hạn”. Cộng đồng khoa học đang xem xét các cách tiếp cận thay thế có độ trễ ít hơn để xác nhận năm vượt quá.
Liệu Trái Đất đã nóng lên vượt quá 1,5oC chưa?
Có, nhưng nó vẫn chưa vi phạm mục tiêu nhiệt độ của Thỏa thuận chung Paris.
2024 là năm đầu tiên nhiệt độ trung bình toàn cầu cả năm cao hơn 1,5oC so với mức thời kỳ tiền công nghiệp, với dị thường ước tính là 1,55oC. Điều này tiếp tục một diễn tiến đáng báo động trong đó 10 năm ấm nhất được ghi nhận đều xảy ra kể từ năm 2015. Trước 2024, không có năm nào chứng kiến dị thường nhiệt độ cả năm lớn như vậy; dù có những khoảng thời gian ngắn hơn – một số ngày, tuần và tháng – nhiệt độ tạm thời vượt ngưỡng 1,5oC. WMO dự báo có 70% khả năng 5 năm tới nhiệt độ trung bình sẽ vượt quá 1,5oC.
Điều quan trọng là, một năm nóng duy nhất không có nghĩa là mục tiêu nhiệt độ của Thỏa thuận chung Paris đã bị vi phạm hoặc không còn trong tầm với nữa. Hiện tại, dị thường nhiệt độ trung bình toàn cầu dài hạn ước tính ở mức khoảng 1,34oC đến 1,41oC, tùy thuộc vào phương pháp được sử dụng.
Tuy nhiên, hai nghiên cứu về mô hình khí hậu gần đây cho thấy nhiệt độ cao của năm ngoái dường như cho thấy thế giới đã bước vào chu kỳ 20 năm mà trong đó dị thường nhiệt độ trung bình sẽ vượt quá giới hạn 1,5oC.
Điều gì xảy ra nếu nhiệt độ Trái Đất vượt ngưỡng 1,5oC?
Ở mức nhiệt độ hiện tại là 1,34 đến 1,41oC, chúng ta đã trải qua những đợt nắng nóng, cháy rừng, bão và lũ lụt thường xuyên và dữ dội hơn. An ninh lương thực và nguồn nước đang chịu áp lực ngày càng tăng. Các hệ sinh thái như rạn san hô đang phải chịu thiệt hại không thể phục hồi. Vượt quá 1,5 oC – thậm chí tạm thời – sẽ làm tăng thêm những rủi ro liên quan đến những tác động này và các tác động khác nữa.
Theo IPCC, ngay cả khi nhiệt độ tăng 1,5oC cũng sẽ khiến gần 1 tỷ người phải chịu tình trạng căng thẳng về nước và sa mạc hóa, chi phí thích nghi và thiệt hại đối với các loại cây trồng chính ước tính khoảng 63 tỷ đô la, và 14% số loài trên thế giới có nguy cơ tuyệt chủng. Thêm khoảng 24% số người sẽ phải đối mặt với lũ lụt so với lịch sử, các rạn san hô sẽ suy giảm 70-90% và sự địa bàn bệnh sốt rét sẽ mở rộng.
Những tác động khí hậu này sẽ tăng mạnh nếu chúng ta vượt quá ngưỡng nóng lên 1,5 độ C. Ví dụ, so với mức 1,5oC, mức nóng lên 2oC dự kiến sẽ gây ra số đợt nắng nóng gấp đôi ở Nam Phi; gấp 1,6 lần diện tích bị cháy rừng ở Châu Âu vùng Địa Trung Hải và tăng thêm 17 tỷ đô la trên toàn cầu do thiệt hại và thích nghi cho các loại cây trồng chính. Mức ấm lên 2 độ C cũng sẽ phá hủy chức năng của các rạn san hô. Các đợt nắng nóng cực đoan sẽ trở nên ngày càng phổ biến, gây ra những tác động khủng khiếp đến sức khỏe con người và sản suất, đặc biệt là ở khu vực Nam Á và Châu Phi.
Việc vượt quá 1,5oC cũng làm tăng nguy cơ vượt qua các điểm tới hạn – ngưỡng quan trọng mà vượt qua đó các phần của Trái đất có thể trải qua những thay đổi đột ngột và có khả năng không thể đảo ngược. Ví dụ, các tảng băng Greenland và Tây Nam Cực có nguy cơ sụp đổ, làm mực nước biển dâng cao hơn và phá vỡ các dòng hải lưu. Các rạn san hô vĩ độ thấp có thể chết hoàn toàn, một đòn tàn phá đối với đa dạng sinh học và những người có sinh kế phụ thuộc vào nghề cá. Và lớp đất đóng băng vĩnh cửu phương bắc có thể tan đột ngột, giải phóng một lượng lớn khí mê-tan làm nóng khí hậu vào khí quyển.
Các hệ thống này có nguy cơ vượt qua các điểm tới hạn ở khoảng 1,5oC. Ở nhiệt độ cao hơn, có thể có thêm các tảng băng, dòng hải lưu và hệ sinh thái bị sụp đổ hoàn toàn. Nhiều điểm tới hạn chuyển các hệ thống từ trạng thái ổn định này sang trạng thái ổn định khác – chẳng hạn như rừng mưa Amazon chuyển sang thảo nguyên. Một khi những thay đổi như vậy xảy ra, sẽ rất khó hoặc thậm chí là không thể đảo ngược chúng theo thang thời gian của con người.
Điểm mấu chốt là với mỗi phần nhỏ của mức độ nóng lên, các tác động trở nên khó khăn hơn hoặc thậm chí không thể thích ứng được. Đây là những gì được gọi là tổn thất và thiệt hại. Tổn thất và thiệt hại có thể là về mặt kinh tế, chẳng hạn như thu hẹp sản xuất công nghiệp, kéo theomất việc làm và sinh kế. Nhưng những thiệt hại khó khăn nhất thường là thứ không thể định lượng được bằng các thuật ngữ kinh tế – như mất đi các nghĩa trang, nhà cửa và người thân.
Liệu chúng ta có thể giữ mức nóng lên ở 1,5oC không?
Trên lý thuyết, về mặt vật lý vẫn có thể tránh sự chi tiêu ngân sách carbon cần để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5oC thông qua việc giảm phát thải nhanh và bền vững. Nhưng tính khả thi của việc thực hiện các chuyển đổi với tốc độ và quy mô cần thiết lại là một vấn đề khác.
Báo cáo năm 2022 của IPCC về giảm thiểu biến đổi khí hậu xác định các con đường để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5oC mà không vượt quá hoặc vượt quá giới hạn. Chúng đòi hỏi “giảm phát thải khí nhà kính nhanh và sâu, và trong hầu hết các trường hợp là ngay lập tức ở mọi lĩnh vực”. Cụ thể, phát thải khí nhà kính sẽ phải đạt đỉnh trước năm 2025 và sẽ phải giảm 43% vào năm 2030 (so với mức năm 2019) và giảm 60% vào năm 2035. Phát thải CO2 sẽ phải đạt mức ròng bằng 0 vào khoảng năm 2050, trước khi cạn kiệt ngân sách carbon. Cụ thể, điều này sẽ bao gồm việc loại bỏ dần mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, tăng đáng kể năng lượng không carbon, mở rộng giao thông bền vững, điện khí hóa giao thông và công nghiệp, và ngăn chặn nạn phá rừng. Việc loại bỏ carbon khỏi khí quyển – thông qua việc hấp thụ vào cây và thông qua công nghệ – cũng cần phải tăng quy mô đáng kể.
Vấn đề là chúng ta không đi theo những con đường đó. Báo cáo Tình hình Hành động Khí hậu phát hiện ra rằng trong số 42 chỉ tiêu quan trọng cần thiết để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5oC, chỉ có một chỉ tiêu – tỷ lệ xe điện trong doanh số bán xe hạng nhẹ – hiện đang đi đúng hướng vào năm 2030. Bất chấp sự gia tăng đáng kể công suất năng lượng tái tạo và doanh số bán xe điện, gần 80% năng lượng toàn cầu vẫn đến từ nhiên liệu hóa thạch, thế giới đang đốt nhiều than hơn bao giờ hết và nạn phá rừng vẫn tiếp tục ở mức báo động . Cơ sở hạ tầng than và khí đốt tiếp tục mở rộng.
Kết quả là, thế giới vẫn thải ra 42 GtCO2 mỗi năm (và thêm 14 GtCO2e các loại khí nhà kính khác). Ngân sách carbon còn lại để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5oC là 130 Gt CO2 , sẽ được tiêu thụ chỉ trong hơn ba năm với tốc độ hàng năm hiện tại.
Nói một cách đơn giản, tính toán sơ bộ, một lộ trình tuyến tính từ phát thải CO2 năm 2024 đến phát thải ròng CO2 nằm trong ngân sách carbon còn lại sẽ đòi hỏi phải cắt giảm lượng khí thải gần 6 Gt C 2 mỗi năm, bắt đầu ngay lập tức và trong suốt thập kỷ còn lại. Để so sánh, cú sốc kinh tế trong đại dịch COVID-19 chỉ làm giảm phát thải CO2 được 2 Gt vào năm 2020 và sự suy giảm này chỉ là tạm thời.
Để đạt được mục tiêu cắt giảm phát thải bền vững ở mức cần thiết sẽ cần đến vai trò dẫn dắt chưa từng có của chính trị và doanh nghiệp, được người dân ủng hộ, dẫn đến một sự chuyển đổi cơ cấu toàn diện trên khắp các lĩnh vực và các nền kinh tế. Có rất ít bằng chứng cho thấy một sự chuyển đổi sâu sắc như vậy sẽ bắt đầu trong tương lai gần. Một nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng mặc dù về mặt lý thuyết vẫn có thể hạn chế sự nóng lên ở mức dưới 1,6oC với xác suất khoảng 50%, nhưng xác suất giảm xuống còn từ 5% đến 45% khi xem xét các rào cản về mặt thể chế và các rào cản khác.
Tất cả những yếu tố này cho thấy nhiệt độ trung bình dài hạn có khả năng vượt quá 1,5oC, ít nhất là tạm thời. Mức độ bao nhiêu và trong bao lâu vẫn còn là vấn đề.
Có nên chọn mục tiêu mới nếu mức 1,5oC bị vượt qua không?
Khi sự hoài nghi về tính khả thi của mục tiêu 1,5oC ngày càng tăng, một số nhà khoa học đã đề xuất tái tập trung sự chú ý vào giới hạn nóng lên ở mức “dưới 2oC” hoặc đưa sự nóng lên trở lại mức 1,5oC sau khi vượt qua tạm thời. Nhưng việc áp dụng các chuẩn mới với nhiệt độ cao hơn đặt ra một thách thức khác: nếu theo các kịch bản mô hình có sẵn hiện nay, các chuẩn mực này sẽ khiến thế giới giảm phát thải chậm hơn và loại bỏ nhiên liệu hóa thạch muộn hơn so với mục tiêu hiện tại – một phản ứng không hiệu quả đối với những tác động ngày càng nghiêm trọng của khí hậu.
Đồng thời, chúng ta nên thừa nhận thực tế đang thay đổi. Nếu nhiệt độ trung bình dài hạn toàn cầu tăng quá 1,5oC, sẽ không còn ý nghĩa gì khi đóng khung hành động theo những gì cần thiết “để tránh vi phạm giới hạn 1,5 độ C”. Thay vào đó, chúng ta có thể đề cập đến việc giảm thiểu sự vượt ngưỡng, ổn định ở nhiệt độ thấp nhất có thể và tránh nóng lên càng nhiều càng tốt để bảo vệ cuộc sống của mọi người và nền kinh tế.
Chúng ta nên làm gì nếu nhiệt độ thế giới vượt quá 1,5oC?
Nếu 1,5oC nằm ngoài tầm với, thế giới vẫn nên làm những gì cần phải làm ngay hôm nay: nhanh chóng giảm phát thải và cái thiện các quá trình loại bỏ khí nhà kính, đồng thời tăng cường nỗ lực xây dựng khả năng phục hồi. Vì sự nóng lên sẽ tiếp tục tăng cho đến khi đạt phát thải ròng CO2, nên việc giảm phát thải thực chất sẽ vẫn rất quan trọng. Và vì hầu hết các kịch bản lập kế hoạch thích ứng đều đã hình dung khả năng vượt quá 1,5oC, nên việc đảm bảo các kế hoạch đó được thực hiện quan trọng hơn là phát triển các kế hoạch mới cho các kịch bản nhiệt độ cao hơn.
Tuy nhiên, việc vượt quá 1,5oC sẽ làm tăng quy mô và tốc độ hành động cuối cùng cần thiết, và có thể gây ra những rủi ro và sự đánh đổi mới. Ví dụ, chúng ta càng vượt quá ngân sách carbon, thì càng cần phải loại bỏ nhiều CO 2 khỏi khí quyển, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn vào việc loại bỏ CO2.. Trong khi hầu hết các kế hoạch thích ứng đã tính đến nhiệt độ cao hơn, việc đạt đến các mức đó sớm hơn sẽ rút ngắn thời gian lập kế hoạch. Không theo kịp tốc độ có thể làm tăng chi phí, dẫn đến việc thích ứng không đầy đủ hoặc thậm chí làm trầm trọng thêm nguy cơ thích ứng kém. Thế giới cũng cần chuẩn bị để giải quyết các mức độ tổn thất và thiệt hại cao hơn, hậu quả của biến đổi khí hậu vượt quá khả năng thích ứng của con người. Cuối cùng, việc vi phạm mục tiêu nhiệt độ đã thiết lập có thể làm nổi bật tiếp cận điều chỉnh bức xạ mặt trời (SRM) gây tranh cãi, cách làm mát hành tinh tạm thời bằng phản xạ ánh sáng mặt trời. Trong khi SRM có rủi ro và chưa được kiểm chứng, chi phí trực tiếp tương đối thấp và tiềm năng ngăn chặn sự nóng lên trong thời gian ngắn chỉ ra khả năng triển khai đơn phương, đòi hỏi sự giám sát và quản lý chủ động hơn.
Và trong khi vượt quá 1,5oC ngày càng có khả năng xảy ra, thì mức độ và thời gian nóng lên – cùng những tác động liên quan – vẫn nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Việc hạn chế mức nóng lên đỉnh điểm sẽ đòi hỏi phải cắt giảm phát thải sâu và liên tục, duy trì và tăng cường các bể chứa carbon, và tăng cường khả năng phục hồi. Việc đạt được những kết quả này không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố địa vật lý và công nghệ, mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi từng bước trong lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp. Các nhà lãnh đạo phải thúc đẩy các điều kiện kinh tế phù hợp để các công nghệ sạch có thể phát huy tác dụng, thông qua các chính sách công thúc đẩy đầu tư vào việc giảm phát thải và khả năng phục hồi, và đảm bảo mọi người nhìn thấy được những lợi ích kinh tế và xã hội từ sự phát triển ít carbon.
Cuối cùng, mọi phần nhỏ của một mức độ đều quan trọng. Các quyết định đưa ra ngày hôm nay sẽ tiếp tục định hình rủi ro khí hậu cho các thế hệ mai sau.
Nguồn: https://www.wri.org/insights/1-5-degrees-c-target-explained
PKL