Các điều ước quốc tế về tầng ozone
- Công ước Vienna năm 1985 về Bảo vệ tầng ozone và Nghị định thư Montreal năm 1987 về Các chất làm suy giảm tầng ozone được thiết lập nhằm bảo vệ tầng ozone, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường khỏi sự tiếp xúc quá mức với bức xạ UV do sự suy giảm tầng ozone. Cả hai đều đã được phê chuẩn bởi 198 bên tham gia trên toàn cầu.
- Công ước Vienna kêu gọi các bên chia sẻ nghiên cứu khoa học, dữ liệu và quan sát. Nghị định thư Montreal kiểm soát gần 100 chất làm suy giảm tầng ozone (ODS) nhân tạo, phần lớn trong số đó cũng là các khí nhà kính mạnh. Văn kiện sửa đổi Kigali (Kigali Admendment) đã bổ sung 18 chất hydrofluorocarbon (HFCs) vào danh sách các chất bị kiểm soát. Mặc dù các chất này hầu như không phá hủy tầng ozone, nhưng chúng là các khí nhà kính rất mạnh. Văn kiện sửa đổi Kigali được thông qua vào năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.
- Việc thực hiện Nghị định thư Montreal đã dẫn đến việc loại trừ 99% các chất ODS, tương đương với khoảng 1,8 triệu tấn ODP (Ozone Depletion Potential, với chất CFC-11 là 1 đơn vị ODP) trên toàn cầu. 1% còn lại chủ yếu là HCFs.
- Tính đến ngày 14/10/2024, có 4 Văn kiện sửa đổi Nghị định thư Montreal (London, Copenhagen, Montreal và Bắc Kinh) đã được 197 trong số 198 quốc gia phê chuẩn. Văn kiện sửa đổi thứ năm và gần đây nhất, tức Văn kiện Kigali, đã được hơn 160 quốc gia phê chuẩn.
Ozone và lợi ích về khí hậu
- Các nghiên cứu gần đây ủng hộ bằng chứng về sự phục hồi của tầng ozone và sự giảm dần kích thước cũng như độ sâu của lỗ thủng ozone Nam Cực kể từ năm 2000, bất chấp sự biến động đáng kể hàng năm về kích thước, cường độ và thời gian tồn tại của lỗ thủng ozone do các điều kiện khí tượng gây ra.
- Bên ngoài vùng Nam Cực (90°B-60°N), có rất ít bằng chứng về sự phục hồi toàn bộ cột ozone kể từ năm 1996.
- Xu hướng của ozone tầng bình lưu thay đổi theo độ cao. Các đo đạc ozone phía trên tầng bình lưu ở vĩ độ trung bình ở cả Bắc và Nam bán cầu cho thấy mức tăng khoảng 1,5-2,2% mỗi thập kỷ và khoảng 1-1,5% mỗi thập kỷ ở vùng nhiệt đới trong giai đoạn 2000-2020.
- Có bằng chứng cho thấy ozone phía dưới tầng bình lưu ở vùng nhiệt đới giảm 1-2% mỗi thập kỷ trong giai đoạn 2000-2020.
- Giả sử Nghị định thư Montreal tiếp tục được tuân thủ, tổng lượng cột ozone dự kiến sẽ trở lại giá trị năm 1980 đến:
- – khoảng năm 2066 ở Nam Cực;
- – khoảng năm 2045 ở Bắc Cực;
- – khoảng năm 2040 ở vành đai vĩ độ (60°B-60°N).
- Những nỗ lực bảo vệ tầng ozone đã góp phần đáng kể vào việc làm chậm biến đổi khí hậu bằng cách tránh được lượng phát thải khoảng 135 tỷ tấn CO2 tương đương từ năm 1990 đến năm 2010. Con số này lớn hơn 5 lần so với mục tiêu giảm phát thải hàng năm trong giai đoạn cam kết đầu tiên (2008-2012) của Nghị định thư Kyoto, tiền thân của Thỏa thuận Paris.
- Việc giảm phát thải ODS nhờ thực hiện Nghị định thư Montreal ước tính sẽ tránh được sự nóng lên toàn cầu khoảng 0,5-1°C vào giữa thế kỷ, so với kịch bản cực đoan với mức tăng không kiểm soát của ODS là 3-3,5% mỗi năm. Tính trung bình trên toàn cầu (bao gồm cả đại dương), mức tăng nhiệt độ trung bình tránh được khoảng 1°C tương ứng với mức giảm thiểu khoảng 25% sự nóng lên toàn cầu dự kiến từ tất cả các loại khí nhà kính.
- Theo một nghiên cứu mô hình, nếu không có Nghị định thư Montreal, bức xạ UV-B hiệu dụng có thể tăng gấp khoảng 5 lần trong thế kỷ 21. Thực vật tiếp xúc với bức xạ UV-B cực mạnh này sẽ bị giảm quang hợp và sinh trưởng, dẫn đến lượng carbon dự trữ trong thảm thực vật trên cạn ước tính giảm 325–690 tỷ tấn vào cuối thế kỷ này. Sự suy giảm khả năng cô lập carbon này sẽ dẫn đến lượng CO2 trong khí quyển tăng thêm 115–235 ppm, khiến nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu tăng thêm 0,5–1,0°C.
- Việc tuân thủ Văn kiện sửa đổi Kigali năm 2016 của Nghị định thư Montreal (yêu cầu giảm dần sản xuất và tiêu thụ một số chất HFC), được ước tính sẽ tránh được mức tăng nhiệt độ toàn cầu từ 0,3-0,5°C vào năm 2100 (không bao gồm lượng khí thải HFC-23). Điều này góp phần đáng kể vào khả năng đạt được Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu nhằm hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu xuống dưới 2,0°C.
- Kết hợp với những cải thiện về hiệu suất năng lượng của thiết bị trong lĩnh vực làm mát, quá trình chuyển đổi sang chất làm lạnh thay thế có GWP thấp có khả năng tăng gấp đôi lợi ích trực tiếp về khí hậu của Văn kiện sửa đổi Kigali.
- Giả sử Nghị định thư Montreal được tuân thủ đầy đủ, bức xạ UV bề mặt dự kiến sẽ giảm 2-6% vào năm 2090 ở các vĩ độ trung bình với các thay đổi khác nhau ở vùng nhiệt đới dưới 3%.
Lợi ích sức khỏe
- Nghị định thư Montreal đã ngăn chặn sự gia tăng đáng kể bức xạ UV-B bề mặt, với lợi ích lớn nhất ở các vĩ độ cao. Các nghiên cứu mô hình cho thấy nếu không có Nghị định thư Montreal, ở các vĩ độ dưới 50° Bắc và Nam, chỉ số UVI (chỉ số biểu thị cường độ bức xạ UV liên quan đến bỏng da) sẽ tăng 10-20% từ năm 1996 đến năm 2020. Con số này sẽ tăng 25% ở cực Nam Nam Mỹ và hơn 100% ở Nam Cực vào mùa xuân.
- Tại Hoa Kỳ, việc thực hiện đầy đủ Nghị định thư Montreal dự kiến sẽ ngăn ngừa được khoảng 443 triệu ca ung thư da; 2,3 triệu ca tử vong do ung thư da và 63 triệu ca đục thủy tinh thể ở những người sinh trong những năm 1890–2100, theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ.
Lợi ích kinh tế
- Quỹ Đa phương thực hiện Nghị định thư Montreal đã và đang hỗ trợ các nước đang phát triển tuân thủ các cam kết của Nghị định thư. Tính đến tháng 5/2023, các khoản đóng góp đã đạt gần 5,1 tỷ USD. Quỹ cũng đã nhận được thêm 25,5 triệu USD đóng góp tự nguyện từ một nhóm các quốc gia tài trợ để hỗ trợ cho các hoạt động đẩy nhanh việc thực hiện mục tiêu loại trừ khí HFCs.
- Nghị định thư Montreal sẽ mang lại lợi ích ước tính 1,8 nghìn tỷ USD cho sức khỏe toàn cầu (1,109 nghìn tỷ USD chỉ tính riêng cho bệnh ung thư da) và gần 460 tỷ USD giúp tránh được thiệt hại cho nông nghiệp, thủy sản và vật liệu từ năm 1987 đến năm 2060 (cả hai đều là ước tính tích lũy).
Nhìn về tương lai
- Thành công của Nghị định thư Montreal đã khơi nguồn cho nỗ lực bỏ sử dụng HFCs, vốn đã được sử dụng để thay thế nhiều loại khí bị cấm. Tiềm năng nóng lên toàn cầu (GWP) trung bình của 22 loại HFCs được sử dụng phổ biến nhất cao gấp khoảng 2.500 lần so với CO2. Phát thải CO2 tương đương trên toàn cầu của các HFCs theo quan sát đã tăng 18% từ năm 2016 đến năm 2020.
- Văn kiện sửa đổi Kigali yêu cầu cắt giảm hơn 80% (tính theo CO2 tương đương) 18 loại HFCs có GWP cao so với mức cơ sở trong 30 năm tới.
- Các ước tính cho thấy phát thải tránh được vào năm 2100 có thể đạt 420 tỷ tấn CO2 tương đương, lớn hơn lượng phát thải CO2 từ các hoạt động của con người trong 10 năm nếu tính theo mức phát thải hàng năm hiện nay.Việc tránh được mức tăng nhiệt độ toàn cầu đến 0,5°C vào cuối thế kỷ này sẽ đóng góp đáng kể vào các nỗ lực giảm thiểu sự nóng lên toàn cầu.
- Việc thay thế HFCs cũng tạo ra cơ hội tăng hiệu suất năng lượng của thiết bị làm mát từ 10–50%, giúp giảm đáng kể chi phí năng lượng cho người tiêu dùng và doanh nghiệp và có khả năng làm tăng gấp đôi tác động về khí hậu của Văn kiện sửa đổi Kigali.
- Phục hồi tầng ozone là một nhiệm vụ lâu dài. Mặc dù nồng độ các chất ODS dự kiến sẽ giảm trên toàn thế giới trong những thập kỷ tới, nhưng sự tiến hóa của tầng ozone sẽ ngày càng bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng các khí nhà kính trong tương lai, các hiện tượng tự nhiên như cháy rừng và phun trào núi lửa,….
Nguồn: https://ozone.unep.org/ozone-day/from-science-to-global-action
PKL