Vào năm 1850, khởi đầu thời kỳ Cách mạng Công nghiệp, Vương quốc Anh là quốc gia phát thải CO2 lớn nhất thế giới. Phát thải của Anh gần gấp sáu lần so với Hoa Kỳ, quốc gia đứng thứ hai vào thời điểm đó. Pháp, Đức và Bỉ góp tên vào danh sách năm nước phát thải hàng đầu thế giới.
Tính đến năm 2022, theo dữ liệu mới nhất hiện có, Trung Quốc là quốc gia phát thải CO2 lớn nhất thế giới, tiếp theo là Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga và Nhật Bản. Tuy nhiên, trong số 10 quốc gia phát thải CO2 hàng đầu, Hoa Kỳ có phát thải bình quân đầu người cao nhất, cao gấp đôi Trung Quốc và gấp 8 lần Ấn Độ.
Thay đổi theo thời gian ở các quốc gia và khu vực phát thải hàng đầu trong 172 năm qua
Từ năm 1850 đến giữa thế kỷ 20, phát thải trên thế giới tăng gần như không đổi. Điều này phần lớn là do công nghiệp hóa và tăng trưởng dân số ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Hoa Kỳ trở thành quốc gia phát thải CO2 hàng đầu vào năm 1887 và chứng kiến mức phát thải tăng nhanh nhất trong chín thập kỷ tiếp theo, tiếp đến là Vương quốc Anh và Đức.
Xu hướng này đôi khi bị gián đoạn bởi các sự kiện lịch sử, như cuộc Đại suy thoái những năm 1930 và sự kết thúc của Thế chiến II năm 1945. Tuy nhiên, việc giảm phát thải chỉ là tạm thời. Các quốc gia ở Bắc Mỹ và Châu Âu tiếp tục thống trị lượng phát thải toàn cầu trong nửa đầu thế kỷ XX. Kết quả là cho đến nay, Hoa Kỳ và EU vẫn là những nước phát thải tích lũy lớn nhất, chịu trách nhiệm về phần lớn lượng CO2 trong khí quyển.
Từ những năm 1950 đến 1980, Nga cũng trải qua thời kỳ tăng trưởng phát thải nhanh chóng. Tuy nhiên, lượng khí thải của nó đã giảm đáng kể sau khi Liên Xô tan rã. Để so sánh, Vương quốc Anh, từng là nước phát thải nhiều nhất thế giới, đã ổn định tổng lượng khí thải CO2 vào khoảng năm 1970.
Trong khi Hoa Kỳ giữ vị trí là quốc gia phát thải CO2 hàng đầu trong suốt thế kỷ 20 thì các nước châu Á bắt đầu nổi lên, dẫn đầu là Trung Quốc.
Kể từ đó, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh chóng – cùng với việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch. Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành quốc gia phát thải CO2 hàng đầu thế giới vào năm 2005.
Một bức tranh tương tự xuất hiện khi xem xét phát thải theo khu vực. Đông Á và Thái Bình Dương đã trở thành khu vực phát thải hàng đầu vào năm 2004. Đến năm 2022, khu vực này đã đóng góp 44% phát thải CO2 toàn cầu. Châu Âu, Trung Á và Bắc Mỹ, những khu vực phát thải cao tiếp theo, lần lượt chiếm 17% và 15%. Tuy nhiên, con số này chỉ đại diện cho tổng lượng phát thải hàng năm.
Khi xét đến phát thải bình quân đầu người, Bắc Mỹ vẫn là nơi cao nhất cho đến nay, tiếp theo là Châu Âu và Trung Á. Tuy nhiên, Đông Á và Thái Bình Dương đang tiến rất gần đến việc trở thành khu vực phát thải bình quân đầu người lớn thứ hai.
Xét lượng phát thải tích lũy kể từ năm 1850, Châu Âu và Trung Á vẫn có tổng lượng cao nhất, tiếp theo là Bắc Mỹ. Nhưng Đông Á và Thái Bình Dương cũng đang nhanh chóng bắt kịp.
COVID-19 gây giảm mạnh phát thải nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn
Đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến phát thải CO2 hàng năm giảm lớn nhất trong lịch sử. Năm 2020, phát thải toàn cầu đã giảm 1,5 Gt CO2 – con số gần tương đương với phát thải CO2 của Nhật Bản trong năm đó và gấp đôi mức giảm năm 1992 sau khi Liên Xô tan rã (mức giảm phát thải lớn thứ hai được ghi nhận trong lịch sử). Tuy nhiên, nó chỉ là tạm thời. Phát thải đã tăng trở lại nhanh chóng khi các quốc gia nối lại hoạt động kinh tế, năm 2021 vượt mức năm 2019.
Phát thải bình quân đầu người toàn cầu đã ổn định kể từ năm 2011
Tin tốt là, trong khi lượng phát thải tuyệt đối tiếp tục tăng, phát thải bình quân đầu người toàn cầu đã không tăng kể từ năm 2011. Điều này cho thấy các quốc gia đang dần thoát khỏi quỹ đạo phát triển cường carbon trước đây khi họ bắt đầu chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, xe điện và công nghệ sạch khác.
Tuy nhiên, vẫn còn một chặng đường dài phía trước. Điều cấp thiết hiện nay là đảo ngược tiến trình về tổng lượng phát thải vẫn đang tăng lên để theo kịp các cam kết về khí hậu toàn cầu nhằm đảm bảo một tương lai có thể sống được cho tất cả mọi người.
10 nước phát thải hàng đầu vẫn chiếm 76% lượng phát thải carbon toàn cầu
Thời gian đầu 1850, chỉ một số ít quốc gia chịu trách nhiệm về phần lớn lượng khí thải toàn cầu. Vào năm 2022, những “người chơi” chính đã thay đổi, nhưng 10 nước phát thải hàng đầu vẫn đóng góp 76% lượng khí thải CO2 toàn cầu.
Mặc dù tất cả các quốc gia sẽ cần phải hợp tác cùng nhau để giải quyết khủng hoảng khí hậu, nhưng nhóm quốc gia tương đối nhỏ này lại phải chịu một phần trách nhiệm rất lớn trong việc gây ra khủng hoảng đó. Các quốc gia này cần tăng cường vai trò lãnh đạo về khí hậu bằng cách giảm nhanh lượng khí thải và hỗ trợ các quốc gia khác trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế ít carbon hơn.
Climate Watch, nền tảng dữ liệu khí hậu của WRI, cung cấp hàng trăm bộ dữ liệu mở trực quan hóa lượng phát thải khí nhà kính lịch sử của tất cả các quốc gia, khu vực, ngành và nhiều loại khí nhà kính khác nhau. Nền tảng này cho phép người dùng phân tích và so sánh những đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và Chiến lược dài hạn (LTS) của các quốc gia theo Thỏa thuận Paris; khám phá các chính sách khí hậu; xem các quốc gia có thể tận dụng các mục tiêu khí hậu của mình như thế nào để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững; và sử dụng các mô hình để vạch ra những con đường mới hướng tới một tương lai thịnh vượng, ít carbon hơn. |
Nguồn: https://www.wri.org/insights/history-carbon-dioxide-emissions
PKL