Phục hồi hệ sinh thái cỏ biển miền Trung
10.02.2022 10:35
Hiện nay các thảm cỏ biển đang đối mặt với nhiều nguyên nhân gây suy thoái do hoạt động của con người như nuôi trồng thủy hải sản, xây dựng cảng biển, phát triển các cơ sở hạ tầng, các khu du lịch cũng như tình trạng khai thác các nguồn tài nguyên quá mức, ô nhiễm rác thải nhựa.
Tạp chí điện tử Thiên nhiên và Môi trường trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết của đồng tác giả PGS. TS. Lê Văn Thăng và PGS. TS. Hoàng Công Tín (Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế) về định hướng phục hồi hệ sinh thái cỏ biển miền Trung.
Trong các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển, cỏ biển - loài thực
vật hạt kín sống ở môi trường nước biển hoặc nước lợ, đóng vai trò quan
trọng đối với hệ sinh thái biển ven bờ, bao gồm cửa sông, đầm phá và
vũng vịnh. Các thảm cỏ này có mối quan hệ chặt chẽ với động vật, môi
trường xung quanh, chúng là cầu nối trong con đường di cư của sinh vật
và là quần cư ương giống cho biển. Các thảm cỏ thủy sinh phát triển ở
vùng trung gian của rừng ngập mặn và rạn san hô hoặc là vùng đệm của hai
hệ sinh thái khác nhau. Do đó, chúng trở thành điểm dừng chân của nhiều
loài cá, động vật không xương sống, thú và bò sát. Lượng thủy sản và
các dịch vụ được cung cấp từ hệ sinh thái cỏ biển ước tính trên 20 triệu
USD mỗi năm. Nhóm thực vật này có thể xử lý một số chất ô nhiễm môi
trường bằng phương pháp sinh học, giúp bảo vệ các sinh vật và chống xói
mòn. Ngoài ra, chúng còn hấp thu cacbonic trong nước, góp phần điều hòa
khí hậu.
Mỗi hecta cỏ biển có khả năng lưu giữ lượng CO2 cao gấp
đôi so với mỗi hecta rừng mưa nhiệt đới (Nguyễn Văn Tiến, 2013). Tuy
nhiên, cỏ biển là một trong những hệ sinh thái có giá trị nhất ở vùng
biển ven bờ và chúng cũng bị đe dọa nhiều nhất trên thế giới (Tan và cộng
sự, 2020). Thảm cỏ biển là một trong những nơi lưu trữ carbon hiệu quả
nhất trên Trái đất, ngăn chặn carbon thoát ra ngoài khí quyển dưới dạng
carbon dioxide. Do đó, thảm thực vật này được xem như là những bể chứa
carbon xanh. Những thảm cỏ biển cũng hỗ trợ nghề cá gần bờ và xa bờ,
đồng thời bảo vệ bờ biển cũng như các sinh cảnh khác.
Vùng ven
biển miền Trung là một trong những khu vực có thảm cỏ biển phân bố phong
phú và đa dạng nhất Việt Nam với địa hình đa dạng, nhiều vùng vịnh,
không chịu tác động của những con sông lớn như sông Hồng hay sông Cửu
Long nên đây là khu vực lý tưởng cho các thảm cỏ biển phát triển. Sự
phong phú về tôm cá, rong biển... ở khu vực biển miền Trung một phần
cũng là nhờ vào những thảm cỏ biển này. Vì vậy, các nghiên cứu về sự
phân bố và đặc điểm sinh thái của thảm thực vật này là cần thiết.

Một hệ sinh thái thảm cỏ biển tiêu biểu ở vùng biển ven bờ miền Trung (ảnh HC Tín, Lý Sơn – tháng 8, 2018).
Gần
đây, các nhà khoa học đã đánh giá đặc điểm sinh thái của các loài cỏ
biển bằng cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Ban đầu các
nhà nghiên cứu dùng tàu, thuyền khảo sát trực tiếp trên thảm cỏ biển để
thu thập mẫu cỏ biển, xác định các loại nền đáy. Sau đó, mẫu cỏ biển
được bảo quản rồi vận chuyển về phòng thí nghiệm để xác định loài và
phân tích các đặc điểm sinh thái như chiều cao chồi, mật độ chồi, sinh
khối trên mặt đất, sinh khối dưới mặt đất, độ phủ. Một số nghiên cứu về
cỏ biển miền Trung có thể kể đến là Cao Văn Lương và cộng sự đã xác định
được 5 loài (Enhalus acoroides, Halophila ovalis, H. major, Halodule
pinifolia và Ruppia maritima) tại Đầm Nại – Ninh Thuận vào năm 2014,
nâng tổng số loài cỏ biển đã biết lại đây từ 3 loài lên đến 6 loài.
Tổng
diện tích phân bố cỏ biển ước tính lên tới 90 ha (Cao Văn Lương, 2014).
Cũng trong năm này, Cao Văn Lương & cs cũng đã điều tra khảo sát về
thành phần loài, sinh lượng, phân bố và độ phủ của cỏ biển dọc các tỉnh
ven biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Kết quả cho thấy Quảng Ninh là
khu vực có nhiều loài cỏ biển nhất (Halophila beccarii,Halophila ovalis,
Halodule pinifolia, Ruppia maritima và Zostera japonica). Diện tích
phân bố của cỏ biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng, và Quảng Bình lần lượt là
1.450 ha, 490 ha, và 350 ha. Các tỉnh còn lại trung bình có khoảng 100
ha (Cao Văn Lương, 2014).

Các thảm cỏ biển ở vùng ven biển miền Trung đã được Nhóm
nghiên cứu Tài nguyên, Môi trường và Sinh thái vùng ven biển (CORE),
Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế tiến hành điều
tra, khảo sát.
Đến nay, các nhà khoa học đang kết hợp phương pháp khảo sát thực địa,
công nghệ GIS và kỹ thuật viễn thám để nghiên cứu đặc điểm của nhóm thực
vật này. Đây là một trong những công đoạn phức tạp nhất trong quá trình
nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu phải thu thập dữ liệu vệ tinh, hiệu chỉnh
bức xạ, hiệu chỉnh khí quyển, hiệu chỉnh cột nước và giải đoán ảnh viễn
thám dựa trên các điểm chìa khóa được xác định trong quá trình thực địa.
Với sự phát triển trong những năm gần đây của viễn thám vệ tinh, đặc
biệt là hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao SPOT, IKONOS, Quickbird,
WorldView-3, PlanetScope và chụp ảnh trên không cùng với tần suất chụp ảnh
tăng, nhiều dự án nghiên cứu về hiện trạng phân bố cỏ biển đã được thực
hiện bằng dữ liệu viễn thám vệ tinh như Hoàng Công Tín và cộng sự (2019,
2021), Trần Ngọc Khánh Ni và cộng sự (2020), Nguyễn Hữu Chí Tư và cộng
sự (2021). Trần Ngọc Khánh Ni và cộng sự(2020) đã ước tính diện tích cỏ
biển tại vịnh Vân Phong lớn nhất (324,2 ha) trong vùng biển tỉnh Khánh
Hòa, theo sau là vịnh Cam Ranh và đầm Thủy Triều với diện tích cỏ biển
lần lượt là 193,9 và 155,3 ha. Diện tích cỏ biển thấp nhất tại vịnh Nha
Trang (63,4 ha) và đầm Nha Phu (62,6 ha). Tại khu vực Trung Trung Bộ,
Nguyễn Hữu Chí Tư và cộng sự đã xác định 42,57 ha cỏ biển tại đầm Lăng
Cô năm 2020.
Tại một số đảo miền Trung, Hoàng Công Tín đã ghi
nhận diện tích thảm cỏ biển năm 2019 khoảng 332 ha tại đảo Lý Sơn,
khoảng 12,78 ha tại Cù Lao Chàm với 5 loài cỏ biển được định danh trong
quá trình khảo sát, bao gồm Halophila decipiens, Halophila ovalis,
Cymodocea serrulata, Thalassia hemprichii, Zostera japonica (Hoàng Công
Tín và cộng sự, 2019, 2020). So với tổng số 15 loài cỏ biển đã được xác
định ở Việt Nam, độ đa dạng loài của thảm cỏ biển ở miền Trung tương đối
cao (chiếm 53,3% tổng số loài). Các nghiên cứu này đại diện cho các hệ
sinh thái ven biển tiêu biểu ở miền Trung, vì vậy có thể xác định được
đặc trưng sinh thái của mỗi khu vực qua các nghiên cứu này, góp phần
quan trọng trong việc quản lý hệ sinh thái cỏ biển cho khu vực miền
Trung.

Ảnh vệ tinh VNREDSat-1 vùng biển ven bờ vịnh Cam Ranh năm 2017 sau khi hiệu chỉnh bức xạ phục vụ giải đoán phân bố của thảm cỏ biển
Tuy
nhiên, các thảm cỏ biển ở miền Trung đang ngày một suy giảm.
Chúng đang tồn tại trong thế rất mong manh. Hằng năm vào mùa mưa bão,
miền Trung chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các cơn bão, số lượng và tần suất
các cơn bão ngày càng tăng lên. Khi bão nhiệt đới vào bờ, sẽ gây xáo
trộn ở những tầng đất phía dưới thảm cỏ biển, ảnh hưởng đến môi trường
sống của các thảm cỏ biển. Do vậy, hệ sinh thái thảm cỏ biển ở miền
Trung rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, sự
đô thị hóa và biến động thảm thực vật trên đất liền cũng có tác động
đến các thảm cỏ biển phía dưới các thủy vực (Nguyễn Hữu Chí Tư và cộng
sự, 2021).

Thảm cỏ biển bị bật rễ vì ảnh hưởng bão.
Số lượng và diện tích
phân bố của các loài cỏ biển ở tất cả các khu vực miền Trung đều đang
giảm dần theo thời gian, thậm chí có khu vực suy giảm 80% số lượng loài.
Chẳng hạn như tại vịnh Vân Phong, một khảo sát do Viện Hải dương học
Nha Trang thực hiện vào năm 2014 đã tìm thấy 9 loài cỏ biển ở đây, nhưng
khi nghiên cứu của Trần Ngọc Khánh Ni & cs đến khảo sát vào năm
2019, con số này đã giảm xuống chỉ còn 2 loài. Nguyên nhân được xác định
do sự phát triển của một số khu kinh tế, cụ thể việc xây dựng cảng và
hoạt động sửa chữa tàu biển của nhà máy đóng tàu gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường sống của cỏ biển. Tại vịnh Nha Trang, sự lấp biển, san nền để
xây dựng một số cơ sở hạ tầng khu du lịch, trong đó có thể kể đến khu
du lịch lấn biển xây dựng sân golf đã làm mất đi hơn 18 ha cỏ biển nơi
đây.
Hiện nay các thảm cỏ biển đang đối mặt với nhiều nguyên nhân
gây suy thoái do hoạt động của con người như nuôi trồng thủy hải sản,
xây dựng cảng biển, phát triển các cơ sở hạ tầng, các khu du lịch cũng
như tình trạng khai thác các nguồn tài nguyên quá mức, ô nhiễm rác thải
nhựa. Nguyễn Hữu Chí Tư và cộng sự (2021) bước đầu tìm hiểu nguyên nhân
suy giảm chủ yếu do ảnh hưởng từ các hoạt động kinh tế - xã hội trong
giai đoạn 1998-2020.
Nếu nhìn lại cả giai đoạn này, sẽ thấy một
điều là vào những năm 1998-2004, thảm cỏ biển chưa chịu nhiều tác động
của con người lắm. Tuy nhiên, khi bước vào giai đoạn phát triển kinh tế,
tốc độ suy giảm diện tích cỏ biển trong khu vực này đã tăng lên đáng
kể. Diện tích các thảm cỏ biển tại đảo Lý Sơn và Cù Lao Chàm cũng có xu
hướng suy giảm theo thời gian do tình trạng khai thác cát biển để trồng
hành tỏi, phá hủy nơi sinh sống của các thảm cỏ biển, xây dựng nơi trú
bão tàu thuyền, cầu cảng, bờ đê, bến thuyền du lịch.

Hoạt động khai thác thủy sản trong cỏ biển và xây dựng bờ đề tại đảo Lý Sơn.
Sự
suy thoái của thảm cỏ biển, không chỉ là thiệt thòi của hệ sinh thái
biển mà còn có thể làm suy giảm nguồn lợi thủy hải sản ở vùng biển miền
Trung. Do đó, cần có các biện pháp bảo tồn, phục hồi và quản lí hệ sinh
thái này nhằm quản lý xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội một
cách khoa học và bền vững.
Phục hồi thảm có biển có nghĩa là giảm
áp lực lên hệ sinh thái này để cỏ biển có đủ thời gian phục hồi theo
theo cách tự nhiên hoặc nuôi cấy giống các loài chủ chốt. Phục hồi cỏ
biển đã trở thành một công cụ quản lý phổ biến để phục hồi các chức năng
và dịch vụ sinh thái bị mất do môi trường sống bị suy thoái. Tuy nhiên,
một số nghiên cứu gần đây đã đánh giá các thảm cỏ biển là một trong số
những hệ sinh thái ven biển tốn kém nhất để phục hồi, và sự thành công
của các dự án phục hồi có thể khó dự đoán (Rezek và cộng sự, 2019).
Hiện
nay, nhiều công cụ và kỹ thuật phục hồi mới đã được phát triển và thử
nghiệm trên toàn thế giới cho thấy mức độ thành công tương đối cao. Tuy
nhiên, không có cách tiếp cận “một giải pháp phù hợp với tất cả” để phù
hợp với đặc điểm sinh thái tất cả các loài trong mọi điều kiện.Các công
cụ mới hiện nay làm cho việc phục hồi nhiều loài cỏ biển và các dịch vụ
hệ sinh thái liên quan trở nên khả thi.Các phương pháp tiếp cận mới tập
trung vào phục hồi toàn diện với mục đích tạo ra “sự phục hồi toàn cầu”
nhằm cải thiện sức khỏe con người và hệ sinh thái (Aronson và cộng sự,
2020). Sự thành công của các công cụ, kỹ thuật và phương pháp tiếp cận
này được cải thiện từ các bài học kinh nghiệm trước đó, bao gồm nhiều
bài học “thất bại” trong việc khôi phục.Trong điều kiện hiện nay của
miền Trung, ưu tiên nhiệm vụ bảo tồn thảm cỏ biển, có nghĩa là thảm thực
vật này không bị tác động tiêu cực, từ đó có thể phục hồi theo cách tự
nhiên mà có thể chưa cần trồng, nuôi cấy giống tốn kém.

Một số kỹ thuật phục hồi thảm cỏ biển. Hàng đầu
tiên từ trái sang phải: gieo hạt bằng phao (©Jannes Heusinkveld); gieo
hạt bằng máy tiêm gieo mầm (©Laura Govers). Hàng thứ hai từ trái sang
phải: vườn ươm cỏ biển (©Gary Kendrick và John Statton); gieo chồi bằng
đinh sắt (©Troels Lange).Hàng thứ ba từ trái sang phải: các cấu trúc
nhân tạo trong nước (©Peter Macreadie), thu thập và sử dụng các nguồn
cấy ghép thay thế (©Harriet Spark) (nguồn Tan và cộng sự, 2020).
Để
xây dựng kế hoạch bảo tồn và quản lý hệ sinh thái cỏ biển, các nhóm
nghiên cứu cần thúc đẩy hoạt động quan trắc định kỳ và nghiên cứu chuyên
sâu về biến động sinh khối, thành phần loài, cấu trúc hệ sinh thái, và
mối liên hệ giữa các hoạt động như phát triển du lịch, cơ sở hạ tầng,...
đến các thảm cỏ biển và ảnh hưởng của sự suy giảm cỏ biển đến các tài
nguyên biển khác, chẳng hạn như nguồn lợi thủy sản nhằm xây dựng, cập
nhật cơ sở dữ liệu về hệ sinh thái, thành phân loài, diện tích. Việc áp
dụng mạng lưới quan trắc sẽ giúp các nhà quản lý phát hiện những thay
đổi của cỏ biển, đánh giá xu hướng biến động và hoàn thành các chỉ số
cảnh báo sớm.
Cùng với hoạt động quan trắc, các biện pháp quản lý
và kiểm soát các hoạt động khai thác, xây dựng, du lịch làm suy thoát
hệ sinh thái cỏ biển, hoàn thiện những chính sách bảo vệ cỏ biển cũng
cần được tăng cường. Từ đó xây dựng cơ chế quản lý hợp tác trong bảo tồn
và chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan, đặc biệt là sự tham gia công
động địa phương. Việc xác định các dịch vụ hệ sinh thái cỏ biển theo
từng thôn, xã, có thể đánh giá vai trò, trách nhiệm, cam kết tham gia và
lợi ích của từng bên liên quan theo các nhóm và mức độ ưu tiên tại vùng
bảo tồn đa dạng sinh học. Sau đó, thành lập ban quản lý cộng đồng trên
nguyên tắc có sự tham gia của các bên liên quan với các tổ, đội tuần
tra, giám sát chung theo các thôn, xã.
Bên cạnh đó, cần áp dụng mô
hình quản lý tổng hợp vùng bờ để ước tính các giá trị cỏ biển, hạn chế
sự suy thoái các hệ sinh thái hướng các vùng ven biển hướng tới phát
triển bền vững và giải quyết các vấn đề tồn tại trong quản lý tài
nguyên. Ngoài ra, các nhà khoa học, chính quyền địa phương nên xây dựng
các chương trình, dự án hợp tác quốc tế trong thời gian tới nhằm trao
đổi chia sẻ thông tin về quản lý, sử dụng bền vững hệ sinh thái này; và
tìm kiếm các nguồn hỗ trợ quốc tế trong phục hồi các hệ sinh thái cỏ
biển cũng như tăng cường năng lực hay thành lập các khu bảo tồn biển.
PGS. TS. Lê Văn Thăng, PGS. TS. Hoàng Công Tín
Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Nguồn https://thiennhienmoitruong.vn/phuc-hoi-he-sinh-thai-co-bien-mien-trung.html
(Theo thiennhienmoitruong.vn) |